Sunday, 28/04/2024 - 01:35|
Chào mừng bạn đến với cổng thông tin điện tử của Trường THCS Song Mai

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC ĐỐI VỚI HỌC SINH LỚP 6 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM

Trường học là nơi đào tạo nhiều thế hệ học trò, là môi trường tạo dựng cho đất nước những con người xã hội chủ nghĩa - có đủ tài năng trí tuệ và những phẩm chất đạo đức cách mạng, để sau này thực sự là người của dân, vì nhân dân mà cống hiến. Người trực tiếp đào tạo những con người như thế không ai khác là giáo viên, giáo viên giảng dạy bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lớp.

Giáo viên là những người thầy được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ chuyên môn nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, trở thành công dân tốt cho xã hội. Bên cạnh đó, ngoài công tác giảng dạy, công tác chủ nhiệm còn là một công tác mà bất kì người giáo viên nào có tâm huyết cũng không thể xem nhẹ được. Tuy nhiên công tác chủ nhiệm trong nhà trường hiện nay gặp phải không ít khó khăn trong việc quản lý, giáo dục học sinh sa sút về đạo đức, thiếu ý thức trong việc học tập, đặc biệt là những học sinh cá biệt, chậm tiến.

Đã là một giáo viên chủ nhiệm, việc đưa lớp tiến lên là trách nhiệm lớn của những ai làm công tác chủ nhiệm, đồng thời cũng là khẳng định mình về năng lực và nhất là có lương tâm. Giáo viên chủ nhiệm nhận thấy rõ mỗi tập thể lớp là cơ sở quan trọng để xây dựng nhà trường vững mạnh, một tập thể tốt chắc chắn sẽ có những học sinh tốt, những con người vừa có đủ cả “ đức” lẫn “ tài”. Như vậy nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng nhất định đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của học sinh.

PHẦN I/ ĐẶT VẤN ĐỀ.

Trường học là nơi đào tạo nhiều thế hệ học trò, là môi trường tạo dựng cho đất nước những con người xã hội chủ nghĩa - có đủ tài năng trí tuệ và những phẩm chất đạo đức cách mạng, để sau này thực sự là người của dân, vì nhân dân mà cống hiến. Người trực tiếp đào tạo những con người như thế không ai khác là giáo viên, giáo viên giảng dạy bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lớp.

Giáo viên là những người thầy được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ chuyên môn nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, trở thành công dân tốt cho xã hội. Bên cạnh đó, ngoài công tác giảng dạy, công tác chủ nhiệm còn là một công tác mà bất kì người giáo viên nào có tâm huyết cũng không thể xem nhẹ được. Tuy nhiên công tác chủ nhiệm trong nhà trường hiện nay gặp phải không ít khó khăn trong việc quản lý, giáo dục học sinh sa sút về đạo đức, thiếu ý thức trong việc học tập, đặc biệt là những học sinh cá biệt, chậm tiến.

Đã là một giáo viên chủ nhiệm, việc đưa lớp tiến lên là trách nhiệm lớn của những ai làm công tác chủ nhiệm, đồng thời cũng là khẳng định mình về năng lực và nhất là có lương tâm. Giáo viên chủ nhiệm nhận thấy rõ mỗi tập thể lớp là cơ sở quan trọng để xây dựng nhà trường vững mạnh, một tập thể tốt chắc chắn sẽ có những học sinh tốt, những con người vừa có đủ cả “ đức” lẫn “ tài”. Như vậy nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng nhất định đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của học sinh.

PHẦN II/ NỘI DUNG

A. MỤC TIÊU:

Để đảm bảo công tác giáo dục lớp chủ nhiện lớp đạt hiệu quả cao, người giáo viên chủ nhiệm lớp đầu cấp phải nắm được vai trò và tầm quan trọng trong công tác chủ nhiệm và tuân thủ một số quy định sau:

1/ Vai trò và tầm quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp:

Giáo viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh. Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò sau đây:

1. 1. Thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học

Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học.

Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp.

Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.

1. 2. Người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết.

Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng năm tháng.

Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt.

Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ.

1. 3. Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp.

Vai tò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm.

Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ nhiệm lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ.

Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp.

1. 4. Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp.

Giáo viên chủ nhiệm lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể.

Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra ban lãnh đạo chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.

1. 5. Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục.

Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách có hiệu quả nhất.

2/ Một số quy định trong công tác chủ nhiệm:

a. Điều tra đối tượng học sinh: Cụ thể là tìm hiểu tình hình mọi mặt của học sinh lớp mình, hoàn cảnh đặc biệt, đặc điểm, cá tính, điều kiện sống... của từng em. Đối với những học sinh có dạng cá biệt để có những biện pháp giáo dục thích hợp.

b. Xây dựng kế họach chủ nhiệm: Kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp phải căn cứ vào chủ trương của nhà trường và tình hình thực tế của lớp. Cần xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, kế hoạch tháng và kế hoạch tuần.

c. Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch:

- Bồi dưỡng năng lực tổ chức, chỉ đạo và thực hiện kế hoạch cho đội ngũ cán bộ lớp, để các em làm tốt nhiệm vụ được giao.

- Tổng kết đúc rút kinh nghiệm sau mỗi đợt công tác, có khen, có chê đối với tập thể cùng như cá nhân.

- Trong khi điều hành công việc của lớp mình, mỗi GVCN phải có một số công tác chủ nhiệm để ghi chép theo dõi hằng ngày.

d. Kết hợp với các đoàn thể.

B. GIẢI PHÁP:

1/ Tìm hiểu phương pháp kỷ luật tích cực:

PPKLTC không chỉ mang lại lợi ích cho giáo viên, nhà trường, gia đình và xã hội mà đặc biệt là mang lại lợi ích cho học sinh, cụ thể.

+ Học sinh có nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, luôn cảm nhận được sự quan tâm, tôn trọng, lắng nghe ý kiến từ thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh

+ Học sinh nhận ra được lỗi lầm, hạn chế của họ để khắc phục, sữa chữa, phát triển toàn diện bản thân

+ Học sinh sẽ tích cực, chủ động hơn trong học tập và rèn luyện bản thân

+ Học sinh tự tin trước đám đông, không mặc cảm tự ti về những khuyết điểm, hạn chế của bản thân

+ Học sinh phát huy được những tiềm năng, những mặt tích cực, điểm mạnh của cá nhân.

2/ Những giải pháp thực hiện:

2.1. Giáo viên phải nắm bắt được tình hình của lớp: Sĩ số, nam, nữ, đối tượng học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm năm học trước, giáo viên giảng dạy, giáo viên tổng phụ trách Đội…

Ổn định tổ chức lớp càng sớm càng tốt để lớp đi vào nền nếp cũng như học tập.

Việc bầu Ban cán sự lớp hết sức cẩn trọng, nhất là bầu lớp trưởng. Lớp trưởng là học sinh nam hay nữ cũng được, miễn là em đó có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực. Thường là các em nam hay tự ái khi lớp trưởng là nữ. Trường hợp này, giáo viên chủ nhiệm phải hết sức khéo léo tạo nên việc sớm hòa đồng giữa các em bằng mọi cách, khẳng định khả năng của lớp trưởng.

Việc tiếp đến là sắp xếp chỗ ngồi của các em. Chỗ ngồi có tác động tâm lý rất lớn đến các em. Nên đổi chỗ định kì khoảng 2 tháng một lần để các em đều được ngồi ở những vị trí phù hợp, đảm bảo phát triển cân đối về mắt.

Không nên để các em học sinh yếu, hay nói chuyện ngồi bên nhau. Những em này cũng không nên cho ngồi bên cửa lớn hoặc cửa sổ, cố gắng sắp xếp các em học yếu, hay nói chuyện ngồi cùng với các bạn học tốt, có đạo đức tốt để bạn giúp đỡ.

Xây dựng được đôi bạn học tập ở trường cũng như ở nhà.

2.2. Xây dựng Ban cán sự lớp:

Ban cán sự lớp là một yếu tố rất quan trọng đảm bảo duy trì tốt mọi hoạt động của lớp vì vậy GVCN phải lựa chọn, phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, hợp lý cho mỗi em. GVCN phải kiểm tra thường xuyên, động viên, rút kinh nghiệm, đưa ra một số giải pháp để ban cán sự lớp hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ví dụ: Mỗi em trong ban cán sự đều có sổ sách ghi chép công tác mình làm và hiểu được nội dung của công việc mình phụ trách. Cuối tuần đến tiết sinh hoạt lớp, các em tự giác xếp thi đua theo tổ, số liệu từng mảng công tác để trình bày trước lớp và cô chủ nhiệm. Tiết sinh hoạt lớp, GVCN như người dự giờ buổi sinh hoạt của các em, nghe các em báo cáo, chờ ý kiến chỉ đạo và triển khai công tác mới của cô “cố vấn”.

Gắn các em vào các phong trào (nhất là giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động ngoài giờ lên lớp) để các em cảm thấy tự tin hơn, cảm thấy được thầy cô và bạn bè tín nhiệm nên sẽ cố gắng làm việc cho thật tốt.

Về quyền lợi: GVCN luôn động viên các em cán bộ lớp qua việc tuyên dương khen thưởng (nếu có) mỗi đợt thi đua để cổ vũ tinh thần các em.

Một điều cần quan tâm là GVCN phải linh động từng nội dung công tác, phải kết hợp thật hài hòa việc thực hiện, giảm biết thời gian không đáng có để các em tập trung vào việc học là chính.

2.3. Xây dựng tổ chức lớp tự quản và tiến bộ:

Làm thế nào để xây dựng được một tập thể lớp tự quản theo đúng nghĩa của nó. Tức là các em tự quản lý: hành vi, đạo đức, tác phong, nề nếp, hoạt động của lớp khi không có giáo viên. Điều này GVCN phải tạo trước cho các em ý thức tự giác và việc quản lý theo dõi hoạt động của đội ngũ cán bộ lớp phải được thực hiện thường xuyên. Muốn vậy, ngay từ đầu năm học GVCN cho tiến hành việc theo dõi thi đua của các tổ. Các tổ trưởng và tổ phó tự quản lý thành viên của tổ mình, phân công theo dõi trực chéo nhau giữa các tổ dưới sự giám sát của cán bộ lớp tương ứng với nội dung từng hoạt động.

Ví dụ:

Truy bài phút đầu buổi, các tổ trưởng sẽ kiểm tra việc chuẩn bị bài các bộ môn trong buổi hôm đó của các bạn trong tổ như thế nào. Cán sự các môn và lớp phó học tập sẽ kiểm tra việc chuẩn bị của các tổ trưởng.

Tiết trống hoặc không có giáo viên, lớp sẽ ôn bài hoặc hoạt động tập thể (đọc báo đội, tự ôn bài…) dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng.

Những sai phạm của các tổ, thành viên trong lớp được ghi tên và nêu ra trong tiết sinh hoạt cuối tuần.

Tiết sinh hoạt lớp là tiết quan trọng nhất trong một tuần thời lượng chỉ có 45 phút mà công việc lớp trong tuần có rất nhiều thi làm sao giải quyết truyền tải hết. Vì vậy, GVCN phải tập cho lớp việc đánh giá, xếp thi đua trước. Mỗi bộ phận có sẵn bản tổng hợp báo cáo. Đến tiết sinh hoạt các em tự thông báo kết quả thi đua, các nội dung được thực hiện trong một tuần (những việc đã làm được và không làm được với lý do cụ thể), tình hình lớp trong tuần, số bạn vi phạm học tập (không chuẩn bị bài, không thuộc bài…), vi phạm việc rèn luyện đạo đức tác phong (không đồng phục, mất đoàn kết, mất trật tự…), vi phạm về công tác văn thể, lao động, tự quản.

GVCN theo dõi, ghi sổ từng nội dung sinh hoạt trong tuần thông qua báo cáo của từng bộ phận. Lần lượt giải quyết từng nhóm vụ việc, tìm lý do sai phạm, đưa ra biện pháp xử lý. GVCN nhận xét kết quả thi đua tuyên dương tổ, cá nhân tốt. Triển khai nội dung tuần tiếp theo và nhắc nhở các em thực hiện tốt các nội dung của lớp trong tuần tiếp theo.

Trong bất cứ phong trào nào động viên khen thưởng luôn là yếu tố không thể thiếu. Tùy theo tình hình, đặc thù của lớp mà GVCN nên áp dụng những nội dung biểu điểm thi đua thích hợp.

Bước đầu phải tập cho các em cách tự quản lớp trong buổi đầu giờ, trong những tiết vắng giáo viên… Có thể buổi đầu chưa quen, kết quả chưa đạt nhưng gắn nội dung sinh hoạt theo chủ đề nào đó thiết thực: cán sự bộ môn nên giải bài tập…Sau nhiều lần các em sẽ thực hiện được. Từ đó việc tự quản sẽ đi vào nề nếp, trở thành thói quen. Trong những buổi đầu duy trì phong trào này rất cần sự quan tâm, theo dõi, nhắc nhở của GVCN.

Một tập thể đoàn kết tham gia tốt các phong trào không phải tự dưng mà có. Phải là kết quả của quá trình đầu tư làm công tác tư tưởng, vô hiệu hóa các phần tử học sinh cá biệt thường gây rối phá vỡ tính đoàn kết trong tập thể. Thường thường sự chia rẽ nội bộ hay xảy ra ở các bạn khác thôn, xóm hoặc giữa các nhóm khác nhau về sở thích, sức học…Điều này GVCN nên nắm bắt để có biện pháp dàn xếp, xử lý.

Ví dụ: Không dừng ở đó, vai trò động viên của GVCN góp phần rất to lớn vào kết quả phong trào thi đua của lớp. Phải khích lệ nêu gương điển hình, so sánh… đúng lúc, kịp thời thì sẽ có tác dụng tích cực.

2.4. Phối hợp với gia đình học sinh:

Từ khi nhận lớp và đi thăm gia đình phụ huynh học sinh, tôi đã hiểu được phần nào ở mỗi học sinh, nên đã lập nên một kế hoạch: Tôi đã trực tiếp đến gặp mặt phụ huynh học sinh lớp mình để biết được điều kiện sống của học sinh. Mục đích đi thăm gia đình phụ huynh nhằm qua đàm thoại với phụ huynh để biết được phụ huynh quan tâm đến học sinh về việc đi học như thế nào? Dò xét xem tư tưởng của phụ huynh về giáo dục như thế nào? Quan tâm đến việc học tập của con cái mình ra sao? Tôi đã tìm hiểu nhằm để biết được điều kiện sống của học sinh, biết được đặc điểm của học sinh để có biện pháp giáo dục hữu hiệu nhất, đặc biệt là học sinh cá biệt. Đi từng gia đình học sinh nhằm quan sát địa bàn nơi ở của học sinh. Trong nhà có giành riêng góc học tập cho các em không? Nếu có thì đã làm như thế nào? Từ những điều đặt ra đó tôi đã khuyến khích các em học lại theo nhóm. Cùng trao đổi cho nhau học tập để cùng nhau tiến bộ. Ở trước lớp tôi động viên và khuyên nhủ các em về vệ sinh lớp trước khi vào học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Về tác phong tư tưởng, các em còn vụng dại, sợ sệt không giám nói, sinh hoạt còn mang nặng ở nhà, ăn mặc còn bẩn. Vì thế tôi đã gần gũi với các em, hoà mình vào tập thể lớp như: gài cúc áo, xắn tay áo, chải đầu, sửa quần áo, đeo khăn quàng, dạy múa... cho các em. Tôi đã giành thời gian giữa giờ để tập hát, kể chuyện cho các em một số câu chuyện bổ ích. Để tạo cho các em hứng thú trong học tập, sự hoà đồng giữa giáo viên và học sinh, rút ngắn lại khoảng cách thầy, trò.

2.5. Phối hợp với BGH nhà trường:

Mỗi tháng BGH tổ chức họp HĐSP một lần, đề ra kế hoạch chủ nhiệm cho GVCN của cả trường cũng như các khối lớp. Kế hoạch của BGH chính là kim chỉ nam cho mỗi GVCN đồng thời trong lần họp định kì BGH cũng được nghe phản ánh từ GVCN về thuận lợi, khó khăn trong quả trình thực hiện hoặc có ý kiến đề xuất nào tôi trực tiếp gặp BGH để điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp. Những khó khăn thắc mắc tôi đều xin ý kiến chỉ đạo hoặc nhận sự giúp đỡ từ phía BGH.

2.6. Phối hợp với các giáo viên bộ môn:

GVCN phải thường xuyên thông báo trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình học tập của lớp cũng như của từng học sinh để nắm bắt được khả năng trình độ của các em mà có phương pháp giảng dạy thích hợp. Tôi còn đề nghị giáo viên bộ môn có kế hoạch phụ đạo thêm những em yếu kém giúp các em lấy lại kiến thức cơ bản. Tôi xin phép giáo viên bộ môn được dự giờ thăm lớp mình để biết được thực lực từng môn của các em như thế nào từ đó đề ra biện pháp giúp đỡ phù hợp. Còn trong các tiết học đề nghị giáo viên bộ môn thường xuyên kiểm tra bài vở, gọi các em phát biểu ý kiến. Những câu trả lời đúng giáo viên bộ môn tuyên dương hoặc cộng điểm để các em có hứng thú trong học tập.

2.7. Phối hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh:

GVCN cũng thường xuyên phối hợp với các thầy cô phụ trách công tác đội, để thường xuyên nắm bắt tình hình học sinh lớp mình cũng như phối hợp học sinh cá biệt của lớp.

Ngoài việc học kiến thức văn hóa, thì việc tham gia các hoạt động đội là một điều không thể thiếu. Thông qua đó, các em sẽ được rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đoàn kết, lòng nhân ái, tinh thần cầu tiến…GVCN phải luôn phối hợp với Đội TNTP, hiểu biết về hoạt động đội của các em, luôn động viên nhắc nhở các em trong các hoạt động đội.

2.8. Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp:

Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh tôi xây dựng một kế hoạch chủ nhiệm. Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, tháng, tuần. Có được kế hoạch thì tôi đi vào chỉ đạo học sinh thực hiện theo kế hoạch đã định. Trước hết phải chọn những học sinh có năng lực làm ban cán sự lớp. Đội ngũ này sẽ giúp giáo viên động viên, đôn đốc, kịp thời uốn nắn, kiểm tra đối tượng học sinh. Sau mỗi đợt công tác, giáo viên tổng kết lại cả quá trình và rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm của lớp để khắc phục và đưa ra hướng hoạt động mới. Những vấn đề trong hướng dẫn lớp hoạt động, giáo viên ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình theo dõi được ở học sinh. Từ đó đánh giá và giáo dục học sinh tốt hơn.

2.9. Thay đổi cách cư xử trong lớp học:

Thay đổi cách cư xử là dựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu nhằm thúc đẩy HS có thái độ và hành vi đúng.

GV cần nắm bắt được tình hình, đặc điểm lớp học từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. GV không nên cầu toàn, đặt quá nhiều kì vọng vào HS, không nên yêu cầu quá cao ở học trò. GV cần ghi nhận những cố gắng và kết quả mà các em đạt được về mọi mặt học tập, nề nếp hay tham gia các hoạt động văn thể mĩ của trường. Đồng thời khuyến khích các em phát huy thế mạnh của mình, kích thích sự tích cực của mỗi cá nhân trong lớp học. GV cần tuyên dương HS có tiến bộ trong mỗi tuần. Sự động viên, khích lệ kịp thời của GV sẽ có sức mạnh cổ vũ sự tự ý thức của HS.

GV nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm được hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột đi sự tích cực chủ động ở các em. Hãy để HS cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cô dành cho các em.

Mỗi lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của GV trên lớp sẽ có tác động không nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học trò. GV sẽ không thuyết phục được HS nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân không chuẩn mực và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi GV phải là một tấm gương sáng về nhân cách để HS noi theo.

2.10. Quan tâm đến những khó khăn của HS:

Mỗi HS đến trường với những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau cả về vật chất lẫn tinh thần ( sức khỏe, nhận thức, tâm lí…). Những điều kiện đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập và rèn luyện đạo đức của các em trên lớp. Vì vậy, quan tâm đến những khó khăn của HS là việc làm vô cùng cần thiết.

GV nên tìm hiểu kĩ về hoàn cảnh của từng học sinh và đặc biệt chú ý đến những HS có hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn tình cảm do cha hoặc mẹ mất sớm, cha mẹ li hôn, gia đình bất hòa, cha mẹ thiếu sự quan tâm. Những HS có hoàn cảnh này thường dễ có thái độ sống buông thả, bất cần; vi phạm nội quy lớp học. GV lúc này không chỉ đóng vai trò là người thầy mà còn là người bạn gần gũi, thân thiện, được HS tin tưởng tâm sự, sẻ chia những khó khăn, vướng mắc của mình. GV cần lắng nghe và gợi ý, định hướng cho HS giải quyết những khó khăn của mình. Nếu mỗi GV gần gũi và tạo được sự tin tưởng ở học trò thì chắc chắn sẽ có ít hơn trường hợp vì giận gia đình, vì đổ vỡ trong chuyện tình cảm mà tìm đến những cái chết thương tâm.

GV liên hệ, trao đổi qua điện thoại hoặc tìm đến gia đình những HS có hoàn cảnh khó khăn để hiểu và có sự cảm thông đối với các em. GV có thể thông qua trước lớp việc miễn lao động, đối với những HS thể chất yếu. Cuối mỗi học kì, GV gợi ý lớp trích quỹ để khen thưởng, động viên những HS vượt khó vươn lên trong học tập.

2.11. Tăng cường sự tham gia của HS trong việc xây dựng nội quy:

Nội quy là những điều quy định để bảo đảm trật tự và kỷ luật của lớp học. Nội quy lớp học được xây dựng trên cơ sở ý kiến của tập thể lớp, cha mẹ học sinh. HS là người tự đề ra nội quy và thực hiện theo nội quy đó. Điều này có ý nghĩa tác động vào tinh thần tự giác của HS, tình thần tôn trọng kỷ luật tập thể mà chính các em đề ra. Hiện tại ở lớp 6B tôi đang chủ nhiệm đang thực hiện theo nội quy đã được tập thể lớp thông qua từ đầu năm học:

- Đi học đúng giờ, không nghỉ học không phép, không bỏ tiết.

- Làm bài tập đầy đủ trước khi đến lớp, tích cực xây dựng bài mới.

- Không nói chuyện, không làm việc riêng trong lớp.

- Không vi phạm quy định về đồng phục

- Tích cực tham gia hoạt động do đoàn, đội phát động.

- Tham gia đầy đủ và nghiêm túc các buổi tập trung.

- Không gây mất đoàn kết trong lớp.

- Không đánh nhau, tàng trữ vũ khí.

- Không vô lễ với GV, Cán bộ công nhân viên nhà trường, không xúc phạm đến bạn, không nói tục chửi bậy.

- Đóng góp đầy đủ, đúng quy định.

- Không vẽ bậy lên bảng, bàn ghế, vệ sinh sạch sẽ lớp học và không làm trừ điểm thi đua của lớp…

2.12. Áp dụng hình phạt tích cực: Lao động vệ sinh trường lớp, khen thưởng thay cho kỉ luật.

Mục tiêu của giáo dục là phát triển con người một cách toàn diện, chú trọng giáo dục, tác động, uốn nắn hành vi hơn là trừng phạt, răn đe. Trong một số trường hợp HS cá biệt, vi phạm nội quy trường lớp, các biện pháp giáo dục ý thức kỷ luật HS tỏ ra bất lực thì các hình thức kỷ luật bằng hình phạt mới được đưa vào để giáo dục. Như vậy, hình phạt chỉ là biện pháp sau cùng nhằm mục đích điều chỉnh những sai phạm của người học. Biện pháp kỷ luật bằng hình phạt phải vì lợi ích của HS, không gây tổn hại đến thể xác và tinh thần của các em. Dưới đây là một số hình thức kỷ luật tích cực có thể tham khảo:

Đối tượng bị phạt lao động là những HS xả rác bừa bãi, viết bậy hoặc vấy bẩn lên tường lớp học, làm hư hại cơ sở vật chất của trường. HS bị phạt sẽ vệ sinh trường lớp, tự khắc phục hậu quả do hành vi vô ý thức của các em gây ra. Biện pháp giáo dục bằng hình thức kỷ luật lao động này sẽ giúp HS biết trân trọng môi trường sạch đẹp mình đang có, giúp HS ý thức rằng việc giữ gìn cảnh quan trường lớp không phải chỉ là công việc của những lao công mà là trách nhiệm của mỗi HS với ngôi trường của mình.

Đối với học sinh lười học bài tôi thường kết hợp với giáo viên bộ môn khuyến khích động viên các em lên bảng trả lời câu hỏi đơn giản nhất và kịp thời động viên cho điểm để học sinh đó có hứng thú trong học tập.

C. BÀI HỌC.

* Đối với HS:

Biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh lớp 6 có tác dụng khiến HS có nhiều cơ hội chia sẻ, HS được bày tỏ cảm xúc, được mọi người quan tâm tôn trọng và lắng nghe ý kiến. HS trở nên tự tin trước đám đông, phát huy được khả năng của mình.

* Đối với GV:

Khi sử dụng biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực đối với học sinh lớp 6 sẽ nhận được những kết quả tốt đẹp như giảm được áp lực quản lí lớp học vì HS hiểu và tự giác chấp hành kỷ luật. Từ đó, GV tạo được sự tin tưởng nơi HS, được HS tôn trọng và quý mến. Điều quan trọng nữa là xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò.

* Đối với nhà trường, gia đình và xã hội:

Nhà trường trở thành môi trường học tập thân thiện an toàn, tạo được niềm tin đối với xã hội. Sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực sẽ giảm thiểu được tệ nạn xã hội, bạo hành và bạo lực; xã hội có được những công dân tốt, giàu khả năng phục vụ, cống hiến cho gia đình và xã hội trong tương lai.

D. KẾT QUẢ.

Qua thời gian tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 6B tôi đã kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm và phân loại các trình độ của học sinh. Từ đầu năm học đến hết năm học tôi nhận thấy lớp có những chuyển biến rõ nét hơn so với đầu năm.

- Những em yếu nay đã khá hơn.

- Những em nhút nhát nay đã mạnh dạn hẳn lên.

- Sĩ số học sinh được duy trì tốt.

- Cả lớp đoàn kết thân ái.

- Hầu hết học sinh trong lớp đều có ý thức tự giác cao.

- Trong việc thực hiện nội quy lớp học, số HS vi phạm nội quy đã giảm.

* Cụ thể:

Kết quả xếp loại hạnh kiểm cuối năm học 2015- 2016 có sự cải thiện đáng kể: 80 % HS trong lớp đạt hạnh kiểm tốt tăng 10 %, 20 % HS đạt hạnh kiểm khá, HS đạt hạnh kiểm trung bình không có (sự tăng giảm đó đều được so sánh với kết quả thống kê được từ kết quả của năm học trước). Có thể nhận thấy từ kết quả này là sự tiến bộ rõ rệt ở HS.

Về học tập, HS đã tích cực hơn trong việc xây dựng bài, hạn chế được HS không thuộc, không soạn và không chép bài đầy đủ. Cuối năm, trong lớp có 05 HS đạt học lực giỏi chiếm 16 % , tăng 4%; 12 HS đạt học lực khá chiếm 40 %, tăng 8 %; 14 HS đạt học lực trung bình, chiếm 44%. Không có HS yếu kém.

Ví dụ tiêu biểu:

Đầu năm học em Trần Đăng Hiếu là một học sinh có những biểu hiện như không ghi chép bài đầy đủ, trong giờ học hay làm việc riêng bị thầy cô nhắc nhở, phê bình nhiều. Bằng hình thức giáo dục kỷ luật tích cực như:

- Giáo viên phân tích đúng sai, đối chiếu các qui định của những hành vi không đúng để học sinh nhận ra lỗi của mình để điều chỉnh sữa đổi, tiến bộ không mắc lỗi lần sau.

- Ứng xử tích cực trong lớp học thể hiện hành vi tương tác giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh, mang tính tích cực chủ động nhằm thể hiện sự quan tâm, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của học sinh.

- Lắng nghe tích cực:

- Lắng nghe một cách chân thành, gợi mở (cả bằng ánh mắt và trái tim).

- Hiểu rõ những điều học cần nói.

- Hiểu rõ được cảm xúc của học sinh.

Sau một thời gian tôi nhận thấy những dấu hiệu về sự hài lòng trong học tập cũng như trong giao tiếp của em Trần Đăng Hiếu có sự thay đổi rõ rệt:

- Học sinh cảm giác thoải mái, dễ chịu khi giao tiếp.

- Thấy mình đựơc tôn trọng.

- Cảm thấy người khác lắng nghe mình.

- Thấy tự tin và phát huy được khả năng của bản thân.

- Đặc biệt mỗi tiết học em đã ghi chép bài đầy đủ.

PHẦN III: KẾT LUẬN.

Phương pháp giáo dục kỷ luật tích cực là phương pháp giáo dục tiến bộ. Phương pháp này chủ yếu hướng tới sự tự giác, tự nhận thức và tự điều chỉnh hành vi của HS hơn là các áp dụng các biện pháp kỷ luật. Thực hiện tốt phương pháp này xây dựng được môi trường giáo dục lành mạnh, tích cực; góp phần phát triển con người một cách toàn diện, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, cần nhân rộng, phát triển phương pháp trên tại các trường học trên toàn quốc. Thiết nghĩ, mỗi phương pháp cũng như biện pháp cụ thể được đưa ra cần được thực tiễn và thời gian kiểm chứng. Lí thuyết sẽ không còn là viển vông, không tưởng nếu như được thực hiện một cách nghiêm túc và có sự đầu tư xứng đáng. Trên đây là ý kiến tham luận của tôi, bày tỏ một góc nhìn về đổi mới công tác chủ nhiệm lớp, chắc chắn không tránh khỏi chủ quan và có phần phiến diện. Rất mong được sự lắng nghe và góp ý từ các tham luận khác để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về phương pháp giáo dục thực sự mới mẻ và có ý nghĩa này.

Một số hình ảnh minh họa:

Cô và trò trong ngày khai trường.

Cùng các em tham gia hoạt động văn nghệ.

                                                                                           Song Mai, ngày 22/4/2018

                                                                                                                               Tg: Nguyễn - Hương.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả: Nguyễn Hương
Nguồn:Kinh nghiệm Sao chép liên kết
Bài tin liên quan
Chính phủ điện tử
Tin đọc nhiều
Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 2
Hôm qua : 65
Tháng 04 : 1.798
Năm 2024 : 6.153